Ngay từ đầu năm mới 2021, lô hàng xuất khẩu gạo của Việt Nam đi Malaysia và Singapore với 1.600 tấn với giá bán cao. Điều này chứng tỏ gạo Việt Nam đã khẳng định được chất lượng, thương hiệu ở các thị trường xuất khẩu. Gạo Việt gia tăng về giá trị trong thời gian qua là do cơ cấu giống được cải thiện, giống chất lượng cao, lúa thơm, đặc sản đang được canh tác với số lượng chiến hơn 85% diện tích.
Có thể khẳng định rằng, năm qua, xuất khẩu gạo đạt trên 3 tỷ USD đang là điểm sáng trong các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam. Giá trị của hạt gạo Việt Nam đã được khẳng định qua các đơn hàng xuất khẩu với giá bán cao từ 680USD đến 1.000 USD/tấn. Có được thành quả này là quá trình dài trong xây dựng thương hiệu, thay đổi tư duy sản xuất và điều quan trọng là cơ cấu giống, chọn giống lúa thơm, chất lượng cao, đặc sản để vào đưa canh tác.
Ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch Hội đồng quản trị Tập đoàn Lộc Trời cho biết, trong những năm qua, đơn vị đã triển khai sản xuất lúa gạo bền vững theo tiêu chuẩn quốc tế (SRP). Ðây là bộ tiêu chuẩn đầu tiên trên thế giới về sản xuất lúa gạo bền vững có tiêu chí nhấn mạnh các yếu tố kinh tế, xã hội và môi trường. Hiện nay, toàn bộ vùng nguyên liệu sản xuất lúa gạo của đơn vị với gần 12.000ha đều sản xuất theo tiêu chuẩn SRP. Mô hình này giúp nông dân giảm khoảng 15% chi phí đầu tư cho thuốc bảo vệ thực vật, góp phần bảo vệ sức khỏe nông dân và bảo vệ môi trường. Từ việc chú trọng vào nâng cao chất lượng hạt gạo, năm qua, đơn vị này đã xuất khẩu lô gạo 126 tấn sang thị trường châu Âu. Đây là lô hàng gạo thơm đầu tiên xuất sang châu Âu theo Hiệp định Tự do thương mại Việt Nam - EU.
An Giang là một trong những tỉnh đứng đầu về sản xuất lúa gạo, diện tích sản xuất lúa hằng năm khoảng 600.000ha, sản lượng bình quân xấp xỉ 4 triệu tấn lúa/năm. Xuất khẩu gạo của An Giang bình quân hàng năm hơn 220 triệu USD và con số này tiếp tục tăng trong những năm tới khi địa phương đã tập trung đầu tư hoàn thiện, đồng bộ hệ thống thủy lợi, thủy nông nội đồng; đồng thời đẩy mạnh đầu tư phát triển đưa cơ giới hóa phục vụ sản xuất nông nghiệp, nhất là ứng dụng và phát triển cơ giới hóa vào sản xuất lúa cánh đồng mẫu lớn, chuyển giao ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật về thâm canh lúa “3 giảm 3 tăng”, “1 phải 5 giảm”, từ đó góp phần tăng quy mô sản xuất.
Phó Chủ tịch UBND tỉnh An Giang Trần Anh Thư cho biết, thời gian qua địa phương đã triển khai chương trình sản xuất lúa gạo bền vững với 4 cái tiêu chí, trong đó đem lại hiệu quả cho người nông dân, sản xuất lúa gạo nhưng vẫn đảm bảo được thổ nhưỡng, đảm bảo độ phì nhiêu của đất; giảm sử dụng phân bón, tiến tới sản xuất thân thiện với môi trường và sản xuất lúa gạo theo hướng thích ứng với biến đổi khí hậu.
Từ nhiều năm qua, tỉnh Vĩnh Long đặc biệt quan tâm đến việc sản xuất giống chất lượng, địa phương đã xây dựng 46 cơ sở gồm hợp tác xã, tổ hợp tác, câu lạc bộ, tổ nhân giống, hộ sản xuất tham gia, với diện tích gieo trồng là 100 ha sản xuất lúa nguyên chủng. Với số lượng cơ sở nhân giống này hàng năm địa phương đã cung ứng hơn 1.100 tấn giống lúa nguyên chủng. Tính đến nay Vĩnh Long đã có hơn 180 nghìn ha thường xuyên sử dụng giống lúa cấp xác nhận đạt tiêu chuẩn xuất khẩu chiếm 79,4% tổng diện tích gieo trồng cây hằng năm. Điều này đã góp phần nâng cao chất lượng của lúa gạo, đáp ứng các tiêu chuẩn của thị trường xuất khẩu, đây là điều cốt lõi để khẳng định thương hiệu gạo Việt Nam.
Theo nhận định của Hiệp hội lương thực Việt Nam, giá gạo Việt Nam cao hơn Thái Lan trong thời gian vừa qua là Việt Nam đã chú trọng đến cơ cấu giống, các giống đặc sản, lúa thơm được đưa vào canh tác đã giúp khẳng định thương hiệu gạo Việt ở các thị trường xuất khẩu và các thị trường này đều chấp nhận với giá bán ở mức cao. Đây là tín hiệu vui đối với người dân, doanh nghiệp và chính quyền địa phương khi đã gặt hái được thành công bước đầu.
Ông Nguyễn Trung Kiên, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA) chia sẻ: “Theo cơ cấu giống, chúng ta vẫn tiếp tục vào thị trường phân khúc cấp trung, cao cấp. Đây là lợi thế mà Việt Nam đang có thế mạnh so với các nước xung quanh. Thứ nhất là đa dạng về nguồn giống chất lượng cao, giống chất lượng cao hiện nay mình có khá nhiều về chủng loại, sức cạnh tranh đang đáp ứng thị hiếu thị trường”.
Ông Lê Quốc Doanh, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT cho biết, gạo Việt Nam đạt giá trị cao nhất trong 10 năm trở lại đây, đây là minh chứng việc thay đổi tư duy sản xuất, tập trung vào giống chất lượng cao, thơm, đặc sản để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu vào các thị trường khó tính và hiện nay, cơ cấu giống lúa thơm, đặc sản đang chiếm hơn 85% diện tích. Để khẳng định hơn nữa thương hiệu gạo Việt trên trường quốc tế, các địa phương, doanh nghiệp, người dân cần tập trung phát triển các sản phẩm hữu cơ không chỉ mang giá trị kinh tế mà đảm thân thiện môi trường. Ngoài ra, cần tăng cường chế biến để tạo giá trị gia tăng, việc làm và tận dụng tốt nhất ưu đãi thuế quan nhờ các hiệp định tự do hóa thương mại hiện nay đối với các mặt hàng nông sản.
Gạo Việt Nam đã khẳng định được thương hiệu thông qua các đơn hàng xuất khẩu và mang về giá trị kinh tế cao, có được điều này là sự vào cuộc của Bộ Nông nghiệp, chính quyền địa phương, doanh nghiệp và người dân thay đổi tư duy sản xuất, ứng dụng kỹ thuật, khoa học công nghệ vào sản xuất, cơ cấu giống chất lượng, thơm và đặc sản để đáp ứng nhu cầu thị trường, nhất là các thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, châu Âu và nhiều các quốc gia và vùng lãnh thổ. Giá trị gạo Việt đã đem về 3 tỷ USD xuất khẩu trong năm qua, điều này đã chứng minh thương hiệu gạo Việt Nam trên trường quốc tế. Để có được thành quả này là một quá trình dài vừa gian nan, vừa vất vả để thay đổi tư duy sản xuất, cơ cấu giống, liên kết chuỗi từ nông dân đến doanh nghiệp để tạo ra sản phẩm chất lượng đáp ứng các thị trường xuất khẩu./.