Thức ăn chăn nuôi chiếm 65% giá thành
Theo báo cáo “Đánh giá hiện trạng và giải pháp trọng tâm của ngành tôm năm 2021” của Tổng cục Thủy sản, 6 tháng đầu năm, xuất khẩu tôm ước đạt 1,5 tỷ USD Trong đó, tôm sú đạt 200 triệu USD, tôm thẻ chân trắng đạt 1,3 tỷ USD. Dự báo trong thời gian tới nhu cầu nhập khẩu tôm tại các thị trường lớn như: châu Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc sẽ tăng trở lại.
Tín hiệu vui tại thị trường quốc tế đặt ra thách thức đối với ngành tôm trong việc đáp ứng nhu cầu thị trường bởi hiện tại dịch Covid-19 đang diễn biến phức tạp tại các vùng thả nuôi, chế biến trọng điểm. Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam nhận định: “Với kịch bản lạc quan nhất là sẽ kiểm soát được dịch Covid-19 đối với vùng sản xuất tôm trong 2 tháng tới, mặt hàng tôm sẽ vẫn có cơ hội tăng trưởng 12% so với năm 2020. Nếu dịch còn kéo dài hơn thì sẽ tăng dưới 9%.”.
Bên cạnh đó, ngành tôm còn một số tồn tại, khó khăn cần tháo gỡ đó là: Sản xuất trong nước thiếu chủ động mới chỉ cung cấp được một phần tôm bố mẹ, phần còn lại hầu hết phụ thuộc vào nhập khẩu và khai thác từ tự nhiên. Việc cấp mã số xác nhận đăng ký cơ sở nuôi đạt kết quả chưa cao. Tình trạng ô nhiễm chất thải còn xảy ra phổ biến, nhất là trong nuôi thâm canh, siêu thâm canh.
Đặc biệt, giá thành sản xuất cao hơn so với các nước trong khu vực do thức ăn nuôi tôm chiếm lỷ lệ cao khoảng 65%. Trong khi đó, giá thức ăn chăn nuôi liên tục tăng phi mã và chưa có dấu hiệu dừng lại.
Ngoài ra, một số thị trường nhập khẩu chính đã có những thay đổi trong chứng nhận an toàn thực phẩm. Điển hình như Hàn Quốc, sản phẩm tôm phải đáp ứng quy định về xử lý nhiệt (tôm nấu chín) mới được miễn kiểm dịch. Tuy nhiên, thời gian xử lý nhiệt theo quy định của Hàn Quốc dài, ảnh hưởng không nhỏ đến màu sắc, mùi vị... của sản phẩm. Thị trường Brazil quy định chế độ xử lý nhiệt khắt khe hơn rất nhiều so với hướng dẫn của Tổ chức Thú y thế giới…
Thống nhất hành động trong 3 trục
Ngày 11/3/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 339/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, giao cho Bộ NN&PTNT từ nay đến năm 2025 phải đạt kim ngạch xuất khẩu tôm 10 tỷ USD và tổng sản lượng thủy sản đến năm 2030 phải đạt 9,8 triệu tấn trong đó 2,8 triệu tấn khai thác, còn lại là nuôi trồng....
Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết, ngành tôm có đội ngũ doanh nghiệp có hơn 20 năm kinh nghiệm từ khâu sản xuất đến chế biến, xuất khẩu. Đặc biệt, các Hiệp định tự do thương mại mà Việt Nam ký kết sẽ mở rộng cơ hội về thị trường cho sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, nhất là tôm, cá tra. Tuy nhiên, diện tích nuôi tôm khoảng 740.000 ha, giảm nhẹ so với cùng kỳ năm 2020. Vì vậy muốn tăng diện tích nuôi trồng để tăng sản lượng là rất khó. Muốn tăng năng suất thì cần phải nâng cao chất lượng, hạ giá thành con giống, thức ăn, kiểm soát môi trường nuôi và thú y phòng bệnh, nâng cao chất lượng tôm tại khu vực nuôi.
Bên cạnh đó, đẩy mạnh chế biến với công nghệ cao, đa dạng sản phẩm cũng như thị trường. Xử lý các vấn đề tồn tại trong chuỗi liên kết như tổ chức sản xuất, chế biến, chiến lược duy trì và phát triển thị trường. Thống nhất hành động trong 3 trục gồm chính phủ, doanh nghiệp, người dân để quyết tâm xây dựng ngành tôm thành một ngành hàng.
Bộ NN&PTNT sẽ làm việc với Bộ Tài nguyên và Môi trường về thủ tục đất đai để làm căn cứ pháp lý cho cấp mã số vùng nuôi, đảm bảo cho truy xuất nguồn gốc. Với sản xuất nhỏ lẻ, Bộ NN&PTNT sẽ bàn với các địa phương tìm giải pháp căn cơ để đảm bảo an toàn sinh bệnh.../.
Ở góc độ địa phương, trước những diễn biến phức tạp, khó lường của dịch bệnh Covid-19, nhiều địa phương chủ động xây dựng phương án sản xuất theo phương châm “3 tại chỗ” là “sản xuất tại chỗ, ăn uống và nghỉ ngơi tại chỗ”, nhằm duy trì và tương hỗ các mắt xích quan trọng nhất chuỗi giá trị con tôm là: người nuôi - người lao động trong DN chế biến - nhà tiêu thụ./.