Khai mạc hội thảo, TS. Hà Minh Hiệp, Phó Tổng cục trưởng - Phụ trách Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đã phát biểu rõ chủ đề của chiến lược là: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”.
Trong Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 đặt ra mục tiêu tăng năng suất như sau: Đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng đạt 50%; Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 6,5%/năm. Trong phương hướng nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội nhấn mạnh: Phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo nhằm tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Chia sẻ về Chiến lược và giải pháp thúc đẩy tăng năng suất: Kinh nghiệm quốc tế và vận dụng vào thực tế Việt Nam, Tiến sĩ Vũ Minh Khương, Trường Chính sách công Lý Quang Diệu – Đại học quốc gia Singapore cho rằng, đại dịch Covid-19 đã làm cho tất cả quốc gia trên thế giới điêu đứng, tuy nhiên dân tộc nào sau đại dịch có thể vực lên được là một bài toán cần lời giải mà thế giới đang hướng đến và trong đó có Việt Nam.
Việt Nam được biết đến là có vị trí địa lý vô cùng chiến lược, với tốc độ phát triển như hiện nay việc “cất cánh” thành một quốc gia phát triển là một bài toán rất lớn và khó. Đảng và Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng khoa học công nghệ và coi đó là bước đột phá để phát triển. Có thể thấy con đường đi lên của các dân tộc đều bắt nguồn từ việc đầu tư vào khoa học kỹ thuật, kể đến những mô hình kinh điển để tham khảo như Hàn Quốc, Thái Lan, Philipines, mức độ GDP/đầu người sẽ tương ứng với mức đầu tư khoa học kỹ thuật, mức sáng tạo.
Cũng theo TS. Vũ Minh Khương, Việt Nam ngày nay có nhiều dấu ấn hội nhập rất lớn, trong đó có dấu ấn với Hàn Quốc. Dường như trong tương lai sẽ theo sự tương xứng với Hàn Quốc, thậm chí có những bước đột phá hay hơn, có tính thời đại hơn, bởi sự cộng hưởng của dân số tăng dần trong nước. Có thể thấy, bài toán tăng trưởng muốn bền vững, rõ ràng phải là năng suất, cụ thể năng suất lao động cấu thành hai vấn đề chính là thu nhập cho người lao động và tiền thu hồi vốn cho nhà đầu tư. Chính vì vậy tăng năng suất lao động cũng chính là thước đo đầu tư của tăng năng suất.
Ở bình diện quốc gia, trong giai đoạn đầu năng suất lao động có thể tăng trưởng khi chưa cần tập trung đầu tư vào khoa học công nghệ mà chỉ cần chuyển dịch nguồn lực, cơ cấu đất đai, con người, vốn vào lĩnh vực mới, có năng suất cao hơn như từ nông nghiệp sang lĩnh vực chế biến chế tạo, dịch vụ thì hiển nhiên năng suất lao động vẫn sẽ tăng lên tự nhiên mà chưa cần đến khoa học sáng tạo. Chính vì vậy, khoa học công nghệ vẫn có sự lép vế, chưa thấy rõ được vai trò. Đây được xem là bài toán thách thức được đặt ra trong giai đoạn tiếp theo, làm sao ngoài chuyển dịch cơ cấu vĩ mô như vậy có thể chuyển sang chuyển dịch cơ cấu thang giá trị.
Nói đến 8 xu thế thời đại, theo TS. Vũ Minh Khương, xu thế nhứ nhất thế giới có các biến động khác thường, có những điều bất ổn như vấn nạn về Chiến tranh Nga – Ukraine, dịch Covid -19,…chính vì vậy, các doanh nghiệp thay vì không chỉ định hướng mở rộng mà phải có giao cường để xây dựng nền móng vững chắc, đương đầu với những thách thức khó và có những dự cảm trong thời gian tới…
Xu thế thứ hai, chính là toàn cầu hóa, cũng là xu thế mà Việt Nam đã nắm bắt rất tốt như là đầu tư nước ngoài, giao lưu với thế giới thông qua các Hiệp định thương mại tự do, xuất nhập khẩu với nước ngoài…Khai thác được xu thế này chính là nguồn của cải rất dồi dào mà doanh nghiệp cần nắm bắt.
Xu thế thứ ba là sự trỗi dậy của châu Á, ví dụ như Trung Quốc đã phát triển vượt bậc trong các lĩnh vực, như năng lượng tái tạo, bán dẫn, công nghệ số,… đặc biệt với dân số đông đúc cũng đã khai thác ngay như cầu ngay trong nước để phát triển. Hay tại Ấn Độ trong vòng 1-2 năm qua cũng đã có các bước tiến mạnh với lộ trình rõ ràng… Đối với Việt Nam đang có đà, đã vượt qua thách thức và tiềm năng lớn, có vị trí chiến lược, kỳ vọng tương lai thông qua các chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài.
Xu thế thứ tư là đô thị hóa, các thành phố mọc lên khắp nơi, thành phố nhỏ to ra, những nơi là thị xã, thị trấn sẽ chuyển dịch lên dần thành phố… Chính vì vậy, việc dịch chuyển lên đô thị trong 30 năm tới là rất cần thiết.
Xu thế thứ năm là già hóa dân số, hiện nay lực lượng lao động đang ngày một già hóa, gánh nặng xã hội trở nên lớn hơn, bên cạnh đó việc già đi trước khi giàu còn là mối đe dọa và là vấn đề cấp bách cần được thực thi các chính sách từ sớm.
Xu thế thứ sáu là trách nhiệm xã hội, nếu không đưa vào thì doanh nghiệp mất ưu thế trên thị trường.
Xu thế thứ bảy là cách mạng số. Cuộc cách mạng này giúp mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội, tổ chức, công ty có cơ hội trở nên thông minh và tăng hiệu quả vượt bậc. Tuy nhiên biến cơ hội này thành thành quả đòi hỏi nỗ lực đột phá và bền bỉ để không ngừng tăng mức trưởng thành số.
Xu thế thứ tám là cách mạng xanh và phát triển bền vững. Cuộc cách mạng này tạo nên bước tiến đột phá trong lĩnh vực năng lượng, cả về cung, cầu, và hệ thống vận hành. Hàng nghìn tỷ đô la đầu tư vào lĩnh vực này. xe điện, sạc điện sẽ phát triển nhanh và rộng khắp. Giá điện mặt trời và gió sẽ tiếp tục giảm mạnh trong thời gian tới. Cách mạng số và cách mạng xanh đang tạo ra những cơ hội chưa từng có để Việt Nam có những bước tiến đột phá đột phá với sức mạnh lan tỏa to lớn trong thời gian tới.
Tại hội thảo, ban tổ chức cũng đã trao chứng nhận Chuyên gia Năng suất của APO cho các chuyên gia của Việt Nam được chứng nhận. Bộ tiêu chuẩn ISO 56000 cũng được đưa ra giúp các doanh nghiệp thiết lập nền tảng đổi mới; áp dụng cho tất cả các tổ chức, bất kể loại hình, khu vực, mức độ trưởng thành hoặc quy mô. Bộ tiêu chuẩn đặc biệt hữu ích đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, những doanh nghiệp này thường thiếu bí quyết công nghệ, phương pháp quản trị và nguồn lực để thực hiện hoạt động đổi mới.
Bộ tiêu chuẩn tập hợp các quy trình vận hành tiêu chuẩn được thiết kế để cung cấp một khuôn khổ chung để thực hiện thành công, duy trì và cải tiến liên tục hệ thống quản lý đổi mới. Bộ tiêu chuẩn đưa ra hướng dẫn chung đối với tất cả các loại hình đổi mới, như đổi mới sản phẩm, dịch vụ, quá trình, mô hình kinh doanh và phương pháp từ cải tiến nhỏ đến đổi mới triệt để, cũng như tất cả các phương pháp tiếp cận, như đổi mới nội bộ và đổi mới mở cho người dùng, thị trường, công nghệ, và các hoạt động đổi mới dựa trên thiết kế. ISO 56000 cho phép kết hợp với các hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn ISO khác nhau, như ISO 9000 về hệ thống quản lý chất lượng hay ISO 14000 về hệ thống quản lý môi trường,...
Ngoài ra, các đại biểu còn tập trung thảo luận, trao đổi, chia sẻ những kinh nghiệm, điển hình trong và ngoài nước về các chính sách, giải pháp nâng cao năng suất, thúc đẩy ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất quốc gia, địa phương và doanh nghiệp. Đồng thời, đẩy mạnh các hoạt động truyền thông, tuyên truyền về năng suất: Xây dựng, công bố báo cáo năng suất hằng năm; Chương trình truyền thông, phổ biến kiến thức, kinh nghiệm năng suất; Tổ chức tuyên truyền, tôn vinh, tổ chức diễn đàn năng suất quốc gia.
Các tỉnh/thành phố tăng cường công tác truyền thông, tuyên truyền về năng suất thông qua các hình thức như phương tiện truyền thông: truyền hình, website, báo, tạp chí, ấn phẩm, tổ chức các hội thảo, hội nghị, tọa đàm,…, tổ chức các cuộc thi, giải thưởng theo chuyên đề và tôn vinh các doanh nghiệp, đơn vị điển hình cải tiến năng suất./.
CTV Khánh Huyền/VOV.VN