Với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt trên 732 tỷ USD năm 2022, Việt Nam đã lọt vào top 20 nền kinh tế có quy mô ngoại thương lớn nhất trên thế giới. Song song với tốc độ gia tăng thương mại, số vụ việc điều tra và áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại (PVTM) của nước ngoài lên hàng hóa Việt Nam cũng ngày một gia tăng. Song, nhờ sự vào cuộc tích cực của Chính phủ, nhận thức của cộng đồng DN về PVTM đang dần được nâng cao. Một số ngành và bộ phận DN đã xác định được hoạt động điều tra PVTM là hoạt động bình thường trong thương mại quốc tế.
Bà Trang Thu Hà, Chánh văn phòng Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) cho biết, việc sản phẩm thép bị điều tra PVTM xuất phát từ những nguyên nhân khác nhau. Trong đó, nguyên nhân khách quan xuất phát từ chủ nghĩa bảo hộ toàn cầu gia tăng, nhiều quốc gia có xu thế bảo hộ ngành thép, từ đó dẫn đến số vụ việc PVTM đối với thép đối với các nước gia tăng. Nguyên nhân chủ quan là sản phẩm thép xuất khẩu của Việt Nam có giá thành tương đối cạnh tranh do chi phí nhân công rẻ, các DN đang dần tự sản xuất nguyên liệu đầu vào thép cán nóng… đe dọa lợi nhuận của DN nước sở tại.
Tuy nhiên theo nhận định của bà Hà, mặc dù đối diện với nhiều vụ việc PVTM, nhưng các DN ngành thép đã dần chủ động sẵn nhân lực, cũng như hệ thống tài chính sổ sách kế toán, hợp tác với các đối tác để tích cực phối hợp cung cấp thông tin khi cơ quan điều tra của nước sở tại đề nghị. Ngoài ra, trong qua quá trình tham gia các vụ việc, DN ngành thép đã dần tiếp cận và chủ động tăng cường khả năng cạnh tranh, tiếp cận bạn hàng và mở rộng ra các thị trường mới.
“DN Việt Nam mới được tiếp cận và xử lý các vụ việc PVTM trong khoảng 10 năm trở lại đây, nên hạn chế lớn nhất vẫn là cách tiếp cận vấn đề. Ngay cả những DN lớn dù có tiềm lực, có sự chuẩn bị về nhân lực, tài chính vẫn phải tốn kém chi phí và nguồn lực để xử lý vụ khởi kiện thường mất rất nhiều kinh phí và thời gian”, Bà Hà chỉ ra những hạn chế.
Đồng cảm về vấn đề này, ông Lương Đức Long, Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Hiệp hội Xi măng Việt Nam chỉ rõ, khi kim ngạch xuất khẩu lớn và có sức cạnh tranh, hàng hóa sẽ bị chú ý áp dụng các biện pháp PVTM. “Do đó, DN cần theo dõi những biến động của từng ngành hàng xuất khẩu để linh hoạt trong sản xuất, đồng thời lưu trữ hồ sơ, dữ liệu đầy đủ để chủ động ứng phó”, ông Long nêu.
Theo đánh giá của Cục PVTM (Bộ Công Thương), hiện tại phần lớn DN trong nước đã có nhận thức khá tốt về PVTM. Có những DN đã coi việc điều tra PVTM là một hoạt động bình thường trong thương mại quốc tế; đã xây dựng phòng, ban, đội ngũ nhân sự chuyên môn hóa cho việc xử lý các vụ việc PVTM. Cùng với đó, công tác PVTM đã đạt được bước phát triển vượt bậc cả về hệ thống chính sách, pháp luật, giúp tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, giúp các ngành sản xuất trong nước phát triển.
Ông Lê Triệu Dũng, Cục trưởng Cục PVTM vẫn khẳng định, hiện nay việc áp dụng các biện pháp PVTM được xem là một phần quan trọng trong chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia, bởi mục đích của việc làm này chính là bảo vệ hoặc hỗ trợ ngành sản xuất trong nước trong quá trình hội nhập. Bên cạnh đó, năng lực xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam tăng nhanh nên hàng hóa xuất khẩu ngày càng trở thành đối tượng của các biện pháp PVTM.
“Việt Nam đang hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới. Đây vừa là cơ hội, cũng là thách thức cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam khi các nền kinh tế đang gia tăng biện pháp PVTM, nhằm bảo vệ sản xuất trong nước. Để hạn chế những rủi ro bị áp dụng biện pháp PVTM, công tác hỗ trợ DN xuất khẩu ứng phó với các biện pháp này sẽ đóng vai trò quan trọng”, ông Dũng đánh giá.
Thực tế thời gian qua, nếu hàng hóa xuất khẩu của DN bị áp dụng thuế PVTM ở mức cao sẽ làm giảm lợi thế cạnh tranh, dẫn đến mất một phần hoặc toàn bộ thị trường xuất khẩu. Chính vì vậy, Việt Nam cần tiếp tục chủ động hoàn thiện hệ thống về phòng vệ để bảo vệ nền kinh tế, DN, thị trường trong nước phù hợp với các cam kết quốc tế. Đồng thời, cần nhanh chóng nâng cao nhận thức về PVTM và tăng cường cơ chế phối hợp giữa các Bộ, ngành, hiệp hội và DN.
Lãnh đạo Cục PVTM cho rằng, đa phần các DN xuất khẩu của Việt Nam vẫn là các DN vừa và nhỏ, chưa nắm rõ về pháp luật PVTM cũng như các nguyên tắc, quy trình, thủ tục, nghĩa vụ và quyền lợi khi tham gia vào các vụ việc điều tra về PVTM. Đáng ngại hơn là vẫn còn nhiều DN thiếu đội ngũ cán bộ, chuyên gia có những hiểu biết về luật pháp để có thể theo dõi, chuẩn bị ứng phó một cách linh hoạt; hệ thống sổ sách kế toán, truy xuất nguồn gốc nguyên vật liệu... chưa được củng cố, hoàn thiện.
Do vậy trong thời gian tới, công tác nâng cao năng lực PVTM cho cộng đồng DN sẽ được Bộ Công Thương tăng cường thông qua các hoạt động tuyên truyền, đào tạo, phổ biến kiến thức pháp luật và kỹ năng xử lý PVTM cho các hiệp hội ngành hàng, các DN, nhất là DN nhỏ và vừa.
Đặc biệt, Cục PVTM tiếp tục duy trì hệ thống cảnh báo sớm PVTM. Cơ chế của hệ thống này sẽ theo dõi thường xuyên những biến động xuất khẩu của Việt Nam sang một số thị trường. Nếu tốc độ tăng trưởng của mặt hàng đó quá nhanh hoặc chiếm một thị phần tương đối lớn ở các nước nhập khẩu, nguy cơ trở thành đối tượng bị điều tra PVTM, hệ thống sẽ cảnh báo để DN, Hiệp hội lưu ý theo dõi, từ đó có bước chuẩn bị và có chiến lược đa dạng hóa thị trường, tránh lệ thuộc quá nhiều vào một thị trường xuất khẩu có tiềm ẩn rủi ro cao về PVTM./.
Nguyễn Quỳnh/VOV.VN