Xử lý nợ xấu đã đạt nhiều kết quả tích cực, nhưng trước những diễn biến bất lợi của tình hình kinh tế, chính trị thế giới và những khó khăn của nền kinh tế trong nước, khả năng thanh toán của nhiều DN suy giảm khiến tỷ lệ nợ xấu có xu hướng gia tăng.
Nghị quyết số 42/2017/QH14 được Quốc hội ban hành năm 2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng (TCTD), sau hơn 6 năm triển khai đã phát huy hiệu quả lớn, là bước đột phá trong công tác xử lý nợ xấu ở Việt Nam. Tuy nhiên, quá trình áp dụng cũng đã bộc lộ nhiều khó khăn, đặc biệt trong bối cảnh bản thân nền kinh tế và hệ thống các tổ chức tín dụng có nhiều thay đổi.
Nợ xấu tiềm ẩn nhiều rủi ro
Tại Hội thảo “Vấn đề xử lý nợ xấu trong Dự thảo Luật các Tổ chức tín dụng (sửa đổi)”, do Tạp chí Nhà Đầu tư tổ chức ngày 17/5, TS. Nguyễn Anh Tuấn, Tổng biên tập Tạp chí Nhà đầu tư cho biết, việc thực hiện Nghị quyết số 42 đã mang lại những chuyển biến tích cực trong công tác xử lý nợ xấu, góp phần không nhỏ vào kết quả công tác cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020.
Tính đến cuối tháng 1/2023, toàn hệ thống đã xử lý được 416.000 tỷ đồng nợ xấu xác định theo Nghị quyết 42. Nhưng trong báo cáo gửi Quốc hội mới đây, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống đến cuối tháng 2/2023 đã lên tới 2,91%, tăng khá mạnh so với mức 2% cuối năm 2022 và gần gấp đôi cuối năm 2021. Đồng thời, để không tạo khoảng trống pháp lý xử lý nợ xấu khi Nghị quyết 42 của Quốc hội hết hiệu lực vào ngày 31/12/2023, Ngân hàng Nhà nước đã dự thảo Luật các TCTD (sửa đổi) để trình Quốc hội cho ý kiến, trong đó bổ sung thêm 1 Chương quy định về xử lý nợ xấu và tài sản bảo đảm.
“Nhiều ngân hàng và DN tỏ ra băn khoăn về việc một số nội dung của Nghị quyết 42 đã không được đưa vào Dự thảo Luật TCTD, như xử lý tài sản bảo đảm là dự án bất động sản, bán nợ xấu có tài sản bảo đảm đang bị kê biên, phân bổ lãi dự thu, quy định về áp dụng thủ tục xét xử rút gọn… Những nội dung này sẽ được quy định tại văn bản pháp luật nào và khi nào được ban hành là vấn đề đang được các ngân hàng và DN hết sức quan tâm”, TS. Nguyễn Anh Tuấn đề dẫn.
Đánh giá chất lượng tài sản của các ngân hàng thương mại (NHTM) đang suy giảm, vấn đề kiểm soát nợ xấu gặp nhiều khó khăn, ông Nguyễn Quốc Hùng, Chủ tịch Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam (VNBA) dẫn chứng, mặc dù tỷ lệ nợ xấu nội bảng được kiểm soát ở mức dưới 3%, nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Một số khoản nợ về nguyên tắc đã trở thành nợ xấu, song do được cơ cấu nợ giữ nguyên nhóm nợ, đầu tư vào trái phiếu DN với mục đích cơ cấu lại nợ…cùng các khoản phải thu khó đòi, lãi dự thu phải thoái...
“Thực tế trong hệ thống, nhiều ngân hàng công bố kết quả kinh doanh năm 2022 và quý I/2023 cho thấy nợ xấu gia tăng mạnh so với trước, nhiều ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu tăng trên 2%, một số ngân hàng nợ xấu tăng đột biến 4%”, ông Hùng thông tin.
Đồng quan điểm, TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV và thành viên Hội đồng tư vấn chính sách tài chính - tiền tệ quốc gia cho rằng, mặc dù Chính phủ, NHNN và các Bộ, ngành đã rất chủ động, quyết liệt ban hành các chính sách hỗ trợ DN, song dự báo nợ xấu của hệ thống TCTD có thể còn tăng trong năm 2023. “Căn cứ là rủi ro tín dụng gia tăng do khách hàng phải chịu tác động cộng hưởng, từ những rủi ro còn lại do ảnh hưởng từ Covid-19, khó khăn trên thị trường bất động sản và thị trường trái phiếu doanh nghiệp, đi cùng với tình hình kinh tế trong nước và quốc tế khó khăn và mặt bằng lãi suất còn ở mức cao”, TS. Cấn Văn Lực đánh giá.
Mở rộng quyền thu giữ tài sản bảo đảm
Đi vào các vấn đề cụ thể, các nhóm chủ đề mà các chuyên gia, NHTM quan tâm là vướng mắc về thu giữ, xử lý tài sản bảo đảm, thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm, áp dụng quyền thu giữ tài sản bảo đảm đối với các tổ chức không phải TCTD, VAMC, áp dụng thủ tục rút gọn tại Toà án...
Ông Hoàng Hải Vương, Giám đốc khu vực Miền Bắc, Ngân hàng Eximbank cho biết, một trong những khó khăn lớn nhất trong xử lý nợ xấu là quá trình thu giữ tài sản bảo đảm. Theo Nghị quyết 42, quyền thu giữ tài sản bảo đảm phải đi kèm với điều kiện là hồ sơ thế chấp giữa khách hàng và các TCTD phải có thỏa thuận về các điều khoản thu giữ tài sản bảo đảm.
“Trên thực tế tính đến thời điểm Nghị quyết 42 có hiệu lực, đa số các hợp đồng thế chấp không có điều khoản này, như vậy muốn thực hiện được các TCTD phải tiến hành đàm phán với khách hàng vay để ký Phụ lục hợp đồng điều chỉnh. Tuy nhiên đối với những khoản nợ xấu đã phát sinh, để thuyết phục khách hàng trả nợ vay đã khó, thuyết phục khách hàng ký phụ lục hợp đồng còn khó khăn hơn rất nhiều”, ông Vương nêu vướng mắc.
Khuyến nghị với Luật các TCTD sửa đổi cần mở rộng quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho các bên mua nợ xấu, ông Darryl Dong - Cán bộ cao cấp đại diện cho Tổ chức tài chính thế giới (IFC) đề xuất, nên cho các TCTD được thế quyền trong các quyền và nghĩa vụ của bên bán nợ xấu. Hoặc ít nhất cho phép bên mua nợ xấu được ủy quyền cho bên bán nợ xấu (tức TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoặc VAMC) quản lý khoản nợ xấu, thu nợ. Trong trường hợp cần thiết, thu giữ tài sản bảo đảm hay phát mại thay mặt cho bên mua nợ xấu.
Giải pháp đối với thứ tự thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm, nhiều chuyên gia ủng hộ phương án ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ của TCTD, trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế với nhà nước. Tuy nhiên theo ông Phan Đức Hiếu, Uỷ viên Thường trực Uỷ ban Kinh tế của Quốc hội, có một số ý kiến cho rằng, việc quy định ưu tiên này tại dự thảo Luật vẫn chưa phù hợp với pháp luật về thuế và pháp luật có liên quan.
Hội thảo cũng đề cập việc ban hành một Thông tư liên tịch để quy định cụ thể về thời gian xử lý, xác minh, trả lời các văn bản của các cơ quan chức năng và hướng dẫn các cơ quan chức năng phối hợp để đẩy nhanh quá trình xử lý, giải quyết hồ sơ của các TCTD./.
Nguyễn Quỳnh/VOV.VN