Tăng trưởng quý 1 thấp
Sự thần kỳ trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2018 đã không kéo được sang 2019, khi kết quả GDP của Việt Nam chỉ đạt 6,79% trong quý I, thấp hơn nhiều so với cùng kỳ 2018. Phép màu đến từ Samsung Việt Nam với 65,7 tỷ USD trong năm 2018, chiếm gần 28% GDP của cả nước đã không còn nữa. Khi ba tháng đầu năm, mặt hàng xuất khẩu giá trị cao nhất của Việt Nam là điện thoại và linh kiện điện tử chỉ đạt 12,1 tỷ USD giảm 4,3% so với cùng kỳ năm trước.
Lý giải nguyên nhân GDP quý 1 giảm, ông Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng Thống kê cho rằng, sau giai đoạn phục hồi năm 2016 và 2017, quý I năm 2018 kinh tế Việt Nam bất ngờ gặp thuận lợi trên mọi lĩnh vực nên tăng trưởng kinh tế đạt mức cao kỷ lục. Tuy nhiên, sang 2019, bối cảnh nền kinh tế đã không còn thuận lợi như trước. Một trong những thành phần quan trọng nhất chiếm 20% ngành chế biến, chế tạo là sản xuất điện tử đã không còn đột biến như giai đoạn đầu năm 2018.
Theo đại diện Bộ Công Thương, cuộc chiến thương mại Hoa Kỳ - Trung Quốc và diễn biến kinh tế - chính trị phức tạp ở nhiều quốc gia và khu vực trên thế giới tạo ra thách thức lớn cho không chỉ xuất nhập khẩu mà còn tác động tới nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô khác của Việt Nam. Các thị trường xuất khẩu đang ngày càng gia tăng các tiêu chuẩn và yêu cầu kỹ thuật đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Một số ngành hàng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đứng trước nguy cơ bị áp thuế bán phá giá, chống trợ cấp. Trong số 9 mặt hàng xuất khẩu tỷ đô, chỉ 2 mặt hàng giữ được đà tăng như năm 2018, còn lại chỉ duy trì mức tăng thấp. Riêng một số mặt hàng nông sản chủ lực như gạo, hạt điều, cà phê, hồ tiêu đều giảm hai con số. Ở trong nước, nền kinh tế cũng đối mặt với một số khó khăn, thách thức lớn như năng suất lao động trong nhiều lĩnh vực còn thấp, năng lực cạnh tranh của một số sản phẩm công nghiệp còn hạn chế, chưa tham gia sâu vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu...
PGS.TS Phạm Thế Anh, đại diện nhóm nghiên cứu của VEPR: Trong bối cảnh giá hàng hóa thế giới lên xuống thất thường, cùng với việc áp kịch trần thuế bảo vệ môi trường lên xăng dầu từ 1/1/2019, Ngân hàng Nhà nước cần theo dõi rủi ro lạm phát trong thời gian tới để có những biện pháp ứng phó phù hợp. |
Một yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế trong quý I năm nay là sự chậm lại của khu vực nông, lâm, ngư nghiệp và đặc biệt là diễn biến bất thường của ngành chăn nuôi. Năm 2019, ngành chăn nuôi Việt Nam phải đối mặt với dịch tả lợn châu Phi bùng phát trên diện rộng và lan nhanh khiến tăng trưởng ngành chăn nuôi ở mức âm trong ba tháng đầu năm và dự báo sẽ còn kéo lùi tốc độ tăng trưởng toàn ngành trong những tháng cuối năm.
Lạm phát tăng
Theo Báo cáo Kinh tế Vĩ mô quý I năm 2019 do Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) công bố, lạm phát tăng nhẹ trở lại trong quý 1. So với cùng kỳ năm 2018, lạm phát toàn phần tăng nhẹ liên tục trong ba tháng đầu năm dao động từ 2,56% - 2,7%. Đặc biệt đáng lưu ý là số DN thành lập mới và số việc làm tạo mới không tăng nhiều so với quý 4/2018. Số DN tạm ngừng hoạt động trong quý 1 cao bất thường nhất là trong tháng 1/2019 với 23.082 DN, cao nhất trong 10 năm trở lại đây. Theo các chuyên gia kinh tế, việc kiềm chế lạm phát dưới 4% theo mục tiêu Quốc hội đề ra sẽ gặp nhiều thách thức bởi hàng loạt mặt hàng như giá điện, giá xăng dầu, y tế, giáo dục … đều có xu hướng tăng. Tác động của việc tăng giá này sẽ làm lạm phát có thể kéo dài tới 2-6 tháng. Do vậy, để đạt được mục tiêu lạm phát dưới 4%, Chính phủ cần có những chính sách điều hành kinh tế linh hoạt, thận trọng.
TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia tài chính ngân hàng cho rằng, kinh tế của Việt Nam vẫn duy trì được sự ổn định trong năm 2019, nhưng sẽ rất khó có sự bứt phá về mặt tăng trưởng cũng như về mặt kiểm soát dưới 4%. Trong quý I chúng ta giữ được ổn định tốt nhưng quý II, và các quý sau thì sẽ khó khi mà giá điện, giá xăng đều tăng. “Giá điện, xăng dầu tăng chắc chắn sẽ tác động tới lạm phát. Nhưng tôi tin rằng năm nay vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức tốt. Nhưng đạt mục tiêu dưới 4% như năm ngoái thì đây là một thách thức rất lớn”, TS. Hiếu khẳng định.
Trước tình trạng lạm phát có thể tăng, PGS.TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR khuyến nghị, chính sách tiền tệ cần thích ứng kịp thời với các biến động kinh tế. Ưu tiên hàng đầu là điều hành tỷ giá linh hoạt, nhằm hấp thụ bớt tác động từ các cú sốc bên ngoài. Lãi suất nên được giữ mức ổn định tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận với thị trường vốn, đặc biệt đối với các ngành đang trên đà tăng tưởng và tiềm năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Ngoài ra, việc hạ thấp đòn bẩy và lành mạnh hóa hệ thống ngân hàng cũng cần được tiếp tục tiến hành.