Bài 4: GIẢI QUYẾT VƯỢT QUÁ YÊU CẦU KHỞI KIỆN CỦA ĐƯƠNG SỰ

Bản án giải quyết xác định lô đất 15.3-17 là tài sản chung của bà Hương, bà Hợp, ông Thái và tiến hành chia tài sản chung là vi phạm nghiệm trọng tố tụng...

 

BÀI 1: TÍNH LÃI TRÁI LUẬT VÀ NHỮNG BẤT THƯỜNG TRONG MỘT BẢN ÁN

Bài 2: VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TP HẢI DƯƠNG KHÁNG NGHỊ BẢN ÁN SƠ THẨM

Bài 3: VÌ SAO KHÔNG XEM XÉT TÌNH TIẾT KHÔNG PHẢI CHỨNG MINH

Trong khi bà Hương khởi kiện yêu cầu tòa án công nhận bà Hương có quyền sử dụng hợp pháp đối với lô đất 15.3-17 thì bản án giải quyết xác định lô đất này là tài sản chung của bà Hương, bà Hợp, ông Thái và tiến hành chia tài sản chung là vi phạm nghiệm trọng tố tụng và áp dụng pháp luật.

Đương sự yêu cầu công nhận, tòa án lại tiến hành chia…

Ngoài nội dung buộc bà Đinh Bích Hợp, ông Lương Đức Thái có nghĩa vụ thanh toán cho bà Phạm Thị Hương hơn 16,294 tỷ đồng, bn án sơ thm s 15/2022/DS-ST, ngày 17/8/2022 ca TAND TP Hi Dương còn xác định lô đất 15.3-17 (đường Phùng Chí Kiên, khu An Phú 3, khu đô thị phía Tây TP Hải Dương) là tài sản chung và tiến hành chia tài sản chung cho các đương sự.

Sự thể bắt đầu xảy ra khi bà Hợp để lại cho bà Hương lô đất số 15.3-17 với giá gốc, diện tích 89,6m2, đồng thời cho bà Hương hưởng 20% phần chiết khấu từ Tập đoàn Nam Cường. Trước đó, bà Hợp đã nộp đủ số tiền 1,384 tỷ đồng. Tuy nhiên, bà Hương mới trả hơn 1 tỷ đồng, số tiền còn lại bà Hương chưa thanh toán cho bà Hợp. Chính vì thế, bà Hợp đã báo cho Tập đoàn Nam Cường chưa sang tên lô đất này cho bà Hương nên xảy ra tranh chấp.

Lô đât 15.3-17 tại đường Phùng Chí Kiên, khu An Phú 3, khu đô thị phía Tây TP Hải Dương.

Quá trình giải quyết vụ án, ngày 01/10/2019 nguyên đơn bà Phạm Thị Hương có đơn khởi kiện bổ sung đề nghị tòa án buộc bà Hợp phải trả lại quyền sử dụng 89,6m2 đất ở thuộc lô 15.3-17. Sau đó, ngày 22/10/2019 bà Hương thay đổi yêu cầu khởi kiện đề nghị tòa án công nhận bà Hương có quyền sử dụng hợp pháp đối với lô đất này.

Liên quan đến tranh chấp lô đất 15.3-17, trong bản án sơ thẩm số 15/2022/DS-ST, ngày 17/8/2022, HĐXX nhận định, mặc dù bà Hợp là người đứng tên nộp tiền nhưng trong tổng số tiền đã nộp cho Tập đoàn Nam Cường có 1.055.000.000 đồng là tiền của bà Hương và 329.661.159 đồng là tiền của bà Hợp nên lô đất 15.3-17 sẽ thuộc quyền sử dụng chung theo phần giữa bà Hương và vợ chồng bà Hợp, ông Thái.

Cũng theo HĐXX, căn cứ kết quả định giá ngày 6/12/2021, lô đất 15.3-17 trị giá 3.763.200.000 đồng. Từ việc xác định tài sản chung, định giá lô đất, HĐXX tiền hành chia tài sản chung như sau: Phần của bà Hương = 2.867.254.500 đồng; phần của bà Hợp, ông Thái = 895.945.500 đồng.

Căn cứ quy hoạch của cơ quan có thẩm quyền thì không thể phân chia lô đất 15.3-17 cho cả hai bên được sử dụng bằng hiện vật nên HĐXX căn cứ phần giá trị mỗi bên được hưởng để giao lô đất cho bà Hương trực tiếp quản lý, sử dụng bằng hiện vật và buộc bà Hương phải thanh toán phần của bà Hợp, ông Thái bằng tiền. Bà Hương có trách nhiệm liên hệ với Tập đoàn Nam Cường, các cơ quan có thẩm quyền để thực hiện thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; phải nộp các khoản thuế, phí theo quy định của Tập đoàn Nam Cương và quy định của pháp luật.

Vi phạm nghiệm trọng tố tụng

Đối với yêu cầu công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp của bà Hương, theo luật sư Nguyễn Công Hiếu – Đoàn luật sư TP Hà Nội, tại thời điểm chuyển nhượng bà Hợp chưa đáp ứng đủ các điều kiện của người sử dụng đất được quy định tại Điều 106, Luật Đất đai năm 2003, chưa phải là chủ sử dụng đất hợp pháp, tại thời điểm giao dịch bà Hương và bà Hợp đang thỏa thuận giao dịch một đối tượng không thể thực hiện được nên giao dịch mua bán lô đất nêu trên giữa bà Hợp và bà Hưng là vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật. Cũng theo luật sư Nguyễn Công Hiếu, bên cạnh yếu tố giao dịch dân sự vô hiệu thì thửa đất 15.3-17 hiện vẫn thuộc quyền quản lý của Tập đoàn Nam Cường, chưa bàn giao cho bà Hợp nên bà Hợp không thể bàn giao đất cho bà Hương, thực tế các bên chưa hoàn tất nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch mua bán, do các bên tham gia giao dịch chưa hoàn tất thực hiện nghĩa vụ nên không có cơ sở xem xét công nhận giao dịch giữa bà Hương và bà Hợp.

Bản án sơ thẩm ngày 17/8/2022 của TAND TP Hải Dương

Cũng về vấn đề này VKSND TP Hải Dương đã phản đối phán quyết trên của TAND TP Hải Dương. Cụ thể, quyết định kháng ngh phúc thm s 02/QĐ-KNPT-VKS-DS, ngày 30/8/2022 của VKSND TP Hải Dương đã chỉ rõ: “Bà Hương khởi kiện yêu cầu tòa án công nhận bà Hương có quyền sử dụng hợp pháp đối với lô đất 15.3-17 nhưng bản án không xem xét để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu này của đương sự là không giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của đương sự; các đương sự không yêu cầu phân chia tài sản chung, nhưng HĐXX lại xác định lô đất này là tài sản chung củ bà Hương, bà Hợp, ông Thái, sau đó tiến hành phân chia tài sản chung, giao cho bà Hương quản lý, làm thủ tục xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự”.

Cũng theo VKSND TP Hải Dương, quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, bà Hợp đề nghị tòa án tuyên giao dịch dân sự về việc mua bán lô đất 15.3-17 giữa bà Hợp và Hương là vô hiệu nhưng HĐXX không xem xét để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu này của bà Hợp là không giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của đương sự.

Bên cạnh đó VKSND TP Hải Dương cũng chỉ rõ, bản án giải quyết xác định lô đất 15.3-17 là tài sản chung của bà Hương, bà Hợp, ông Thái và tiến hành chia tài sản chung là vi phạm nghiêm trọng tố tụng và áp dụng không đúng pháp luật. Cụ thể là yêu cầu khởi kiện bổ sung ban đầu của bà Hương là kiện đòi tài sản là quyền sử dụng đất đối với bà Hợp. Sau đó bà Hương thay đổi yêu cầu khởi kiện bổ sung thành yêu cầu công nhận bà Hương có quyền sử dụng hợp pháp đối với lô đất 15.3-17 nên đây là tranh chấp ai là người có quyền sử dụng đất, cần được hòa giải tại UBND cấp xã theo quy định tại Điều 202, Luật đất đai 2013. Căn cứ khoản 2, Điều 3 Nghị quyết 04/2017 năm 2017 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao thì bà Hương chưa có đủ điều kiện khởi kiện đối với nội dung này, cần đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện bổ sung của bà Hương trong vụ án này và bà Hương có quyền khởi kiện bằng một vụ án khác.

Mặt khác lô đất này vẫn thuộc quản lý của Tập đoàn Nam Cường, chưa ký kết hợp đồng chuyển nhượng cho ai. Tài liệu trong hồ sơ thể hiện không có việc bà Hương và bà Hợp thỏa thuận mua chung thửa đất này. Cả bà Hợp và bà Hương đều không thuộc một trong các trường hợp được cấp giấy chứng nhận QSDĐ theo quy định tại Điều 99, Luật Đất đai 2013. Bản án xác định lô đất này là tài sản chung của bà Hương, bà Hợp, ông Thái và tiến hành chia tài sản chung là không có căn cứ pháp luật, không phù hợp quy định của Luật Đất đai về điều kiện công nhận QSDĐ.

Vụ án dân sự liên quan đến bà Hợp và bà Hương nhận được sự quan tâm, chú ý của dư luận, cơ quan chức năng không chỉ bởi con số vay 7,5 tỷ đồng đòi trả hơn 33 tỷ đồng mà còn là thời gian xét xử kéo dài 8 năm qua, với 3 lần do TAND TP Hải Dương xét xử sơ thẩm, 2 lần TAND tỉnh Hải Dương xét xử phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm TAND cấp cao tại Hà Nội nhưng sự việc chưa ngã ngũ, bản án chưa nhận được sự đồng tình. Vậy phiên tòa phúc thẩm lần thứ ba, TAND tỉnh Hải Dương có khắc phục được những vi phạm đã được VKSND TP Hải Dương, TAND cấp cao tại Hà Nội chỉ ra hay không? Đó là điều dư luận quan tâm.

 

Bình luận

    Chưa có bình luận