Vụ việc vay 7,5 tỷ đồng đòi trả 33 tỷ đồng ở Hải Dương: Cần một phán quyết khách quan

Chỉ là một vụ việc dân sự nhưng tranh chấp giữa nguyên đơn Phạm Thị Hương và bị đơn Đinh Bích Hợp đã kéo hàng loạt cơ quan tư pháp vào cuộc.

 

Chỉ là một vụ việc dân sự nhưng tranh chấp giữa nguyên đơn Phạm Thị Hương và bị đơn Đinh Bích Hợp đã kéo hàng loạt cơ quan tư pháp vào cuộc. Vụ việc cho vay 7,5 tỷ đồng nhưng đòi nợ hơn 33 tỷ đồng, ép con nợ phải bán nhà đất biệt thự và một căn chung cư hạng sang không chỉ gây xôn xao dư luận mà còn gây sự ngạc nhiên, bất ngờ bởi những vi phạm của bản án TAND TP Hải Dương…

Tám năm, 3 bản án sơ thẩm, 2 bản án phúc thẩm, vụ việc chưa ngã ngũ

Sự việc bắt đầu từ năm 2008 – 2013, bà Đinh Bích Hợp và bà Phạm Thị Hương (cùng cư trú tại TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương) đã nhiều lần vay tiền của nhau. Theo phản ánh, bà Hợp vay bà Hương là 7,5 tỷ đồng. Nghĩ là chỗ thân quen, hỗ trợ vốn để làm ăn, nhưng bà Hợp lại không ngờ bà Hương “quay ngoắt” tính lãi suất theo kiểu “tín dụng đen”. Ngày 25/1/2013, bà Hương viết giấy chốt nợ với bà Hợp với số tiền trên 33,127 tỷ đồng.

Ngày 26/3/2013, bà Hương cho bà Hợp vay số tiền là 2,13 tỷ đồng, cộng với số tiền chốt nợ tại giấy biên nhận ngày 25/1/2013, tổng là 35,257 tỷ đồng nhưng hai bên thống nhất làm tròn tổng số nợ là 35 tỷ đồng.

Tiếp đó, bà Hương soạn thảo giấy bán nhà đất với nội dung bà Hợp bán cho bà Hương 2 căn biệt thự cao cấp Đỉnh Long, TP. Hải Dương với số tiền 30 tỷ đồng. Ngày 28/3/2013, tại Văn phòng công chứng Thành Đông (TP Hải Dương) bà Hương và bà Hợp đã ký hợp đồng ủy quyền, trong đó có nội dung bà Hương thay mặt bà Hợp được toàn quyền quản lý, sử dụng, chuyển nhượng, thế chấp, cho thuê quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất (nếu có) đối với 2 căn biệt thự trên. Thêm nữa, vợ chồng bà Hợp còn chuyển nhượng căn chung cư cao cấp, trị giá 5 tỷ đồng trong khu đô thị Nam Thăng Long, Hà Nội (Ciputra) cho bà Hương.

Căn biệt thự cao cấp Đỉnh Long, TP. Hải DươngTỉnh ngộ lại, bà Hợp nhận thấy bà Hương cho vay theo kiểu tín dụng đen nên yêu cầu bà Hương tính lại lãi vay. Không chấp thuận yêu cầu của bà Hợp, bà Hương đã khởi kiện bà Hợp ra tòa.

Ngày 2/4/2014, TAND TP Hải Dương đưa vụ án ra xét xử và tuyên hợp đồng ủy quyền ký ngày 28/3/2013 giữa bà Đinh Bích Hợp, ông Lương Đức Thái với bà Phạm Thị Hương là vô hiệu. Phán quyết của tòa buộc vợ chồng bà Hợp trả cho bà Hương số tiền cả gốc và lãi khoảng 10 tỷ đồng. Tòa không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Hương về việc đòi vợ chồng bà Hợp trả số tiền là 30 tỷ đồng như giấy nợ.

Sau đó, bà Hương kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm của TAND TP Hải Dương. Còn bà Hợp kháng cáo không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm, bác 2 tỷ đồng bà Hợp đã trả cho bà Hương và 3 tỷ đồng chưa tính trừ số tiền bà Hợp bán nhà cho bà Hương tại căn hộ Ciputra.

Ngày 15/9/2014, TAND tỉnh Hải Dương đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, quyết định hủy bản án sơ thẩm của TAND TP Hải Dương, giao TAND TP Hải Dương giải quyết lại theo thủ tục chung.

Ngày 21/2/2017, TAND Hải Dương đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm lần 2. Bản án sơ thẩm lần 2 này sau đó cũng bị bà Hương  và bà Hợp kháng cáo.…

Ngày 17/8/2022, TAND TP Hải Dương ban hành bản án số 15/2022/DS-ST. Tòa án tuyên xử: Buộc bà Đinh Bích Hợp, ông Lương Đức Thái có nghĩa vụ thanh toán cho bà Hương số tiền sau khi đối trừ các khoản tiền các bên phải thanh toán cho nhau là hơn 16,294 tỷ đồng. Xác nhận 89,6 m2 đất ở thuộc lô đất số 15.3-17 đường Phùng Chí Kiên, phường Tân Bình, TP Hải Dương thuộc quyền sử dụng theo phần của bà Hương và bà Hợp, ông Thái. Phần giá trị quyền sử dụng đất bà Hương được hưởng là 2.867.254.500 đồng; phần giá trị quyền sử dụng đất bà Hợp, ông Thái được hưởng là 895.945.500 đồng…

Trong khoảng thời gian 8 năm, từ tháng 4/2014 đến tháng 8/2022, liên quan đến vụ án tranh chấp giữa nguyên đơn là bà Phạm Thị Hương, bị đơn là bà Đinh Bích Hợp đã có 3 bản án sơ thẩm, 2 bản án phúc thẩm và một quyết định giám đốc thẩm được ban hành, nhưng sự việc vẫn chưa ngã ngũ.

Những lập luận thuyết phục của Tòa án và Viện kiểm sát

Sau khi TAND TP Hải Dương ban hành bản án sơ thẩm, gia đình bà Hợp đã có đơn kháng cáo bản án này. Ngày 30/8/2022, VKSND TP Hải Dương đã ra quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ-KNPT-VKS-DS, trong đó chỉ rõ bản án sơ thẩm số 15/2022/DS-ST có nhiều vi phạm.

VKSND TP Hải Dương cho rằng, bản án xác định số tiền nợ của bà Hợp với bà Hương từ năm 2008 đến năm 2013 bằng việc xác định giá trị nhà, đất ở khu biệt thự Đỉnh Long và 3 tỷ đồng giá trị căn chung cư Ciputra là không có cơ sở, vì giá trị nhà đất không phải là căn cứ xác định số nợ của các bên. Việc xác định số nợ gốc phải dựa trên các giấy biên nhận vay nợ, các giấy thanh toán tiền vay và các giấy tờ khác liên quan đến việc vay nợ do các bên cung cấp...

VKSND TP Hải Dương đã chỉ ra nhiều vi phạm trong bản án sơ thẩm của TAND TP Hải Dương.Việc HĐXX xác định số tiền 33.127.000.000 đồng không phải là tiền vay gốc, mà là số tiền được hình thành từ việc cộng lãi vào gốc rồi tính lãi chồng lãi. HĐXX căn cứ thỏa thuận này để xác định nợ gốc tương đương giá trị nhà đất do các bên thỏa thuận dùng để đối trừ nợ, như vậy là thừa nhận hiệu lực của giao dịch dân sự cho vay lãi cao vượt quá quy định và tính lãi chồng lãi trái pháp luật.

Tiếp tục chỉ ra những vi phạm của bản án sơ thẩm, VKSND TP Hải Dương phân tích, các bên thống nhất đối trừ nợ bằng giá trị nhà đất tại thời điểm ngày 26/3/2013, nhưng HĐXX lại xác định giá trị tài sản tại ngày 4/11/2021 để tính số tiền nợ gốc là thu thập, đánh giá chứng cứ là không đủ, không đảm bảo quyền lợi của đương sự.

VKSND TP Hải Dương cho rằng, bản án nhận định các giấy biên nhận thu thập được không phản ánh đầy đủ số lần, số tiền bà Hương cho bà Hợp vay nên không thể căn cứ các tài liệu này để xác định nợ gốc nhưng lại căn cứ vào các giấy tờ ghi chép thu thập được trong hồ sơ vụ án để tính số tiền bà Hợp đã trả cho bà Hương là đánh giá chứng cứ không khách quan, toàn diện.

Với 04 giấy biên nhận khoản vay (ngày 22/7/2008, ngày 14/9/2008, ngày 25/11/2008 và ngày 31/10/2012), bản án nhận định bà Hợp trình bày đã thanh toán xong các khoản nợ theo giấy biên nhận trên nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh, nên không có cơ sở chấp nhận. Tuy nhiên, theo VKS tại biên bản lấy lời khai của bà Hương ngày 29/10/2014 tại TAND TP Hải Dương (bút lục 605-606) thể hiện: “Toàn bộ số tiền tại các giấy biên nhận nợ của các ngày 22/7/2008 bà Hợp vay 1 tỷ đồng, ngày 14/9/2008 vay 300 triệu đồng, ngày 25/11/2008 vay 300 triệu đồng và giấy biên nhận ngày 31/10/2012 do anh Nguyễn Văn Thành nhận tiền vay hộ bà hơn 200 triệu đồng (anh Thành ký nhận) không nằm trong tổng số 33.127.000.000 đồng mà tôi và bà Hợp đã chốt nợ. Tất cả các khoản tiền trong các giấy biên nhận nợ trên bà Hợp đã trả cho tôi”.

Từ phân tích này, VKSND TP Hải Dương cho rằng, số tiền 1,8 tỷ đồng bà Hợp đã trả nợ bà Hương theo 04 giấy biên nhận nêu trên, đã được các bên đương sự công nhận, là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, nhưng HĐXX lại xác định bà Hợp chưa thanh toán các khoản vay này với căn cứ do bà Hợp không cung cấp được chứng cứ, là vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ theo quy định tại khoản 2, Điều 92, Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bên cạnh đó, VKSND TP Hải Dương cũng cho rằng bản án vi phạm trong việc không giải quyết hết yêu cầu và vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự. Cụ thể, theo VKSND TP Hải Dương, bà Hương khởi kiện yêu cầu tòa án công nhận bà Hương có quyền sử dụng hợp pháp đối với lô đất 15.3-17 (đường Phùng Chí Kiên, khu An Phú 3, khu đô thị phía Tây TP Hải Dương) nhưng bản án không xem xét để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu này của đương sự là không giải quyết hết yêu cầu của đương sự; các đương sự không yêu cầu phân chia tài sản chung, nhưng HĐXX lại xác định lô đất này là tải sản chung, giao cho bà Hương, bà Hợp, ông Thái, sau đó tiến hành phân chia tài sản chung,… là giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự…

Cũng cần phải nhắc lại, trước khi TAND TP Hải Dương ban hành bản án số 15/2022/DS-ST thì ngày 27/12/2018, TAND cấp cao tại Hà Nội có quyết định giám đốc thẩm số 81/2018/DS-GĐT: Hủy toàn bộ bản án phúc thẩm số 40/2017/DS-PT, ngày 22/12/2017 của TAND tỉnh Hải Dương và bản án sơ thẩm số 02/2017/DS-ST, ngày 21/2/2017 của TAND TP Hải Dương. Giao hồ sơ vụ án cho TAND TP Hải Dương xét xử theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật.

TAND cấp cao tại Hà Nội, chỉ rõ: Tòa án cấp sơ thẩm và tòa án cấp phúc thẩm chưa thu thập chứng cứ về việc mua bán lô đất số 53.05 tại Tập đoàn Nam Cường và chưa lấy lời khai của những người làm chứng để làm rõ bà Hợp có trả tiền mua lô đất này cho ông Sùng hay không?… Khi hủy hợp đồng chuyển nhượng nhà đất lập ngày 26/3/2013 theo yêu cầu của các bên thì không buộc bà Hợp phải chịu tiền lãi đối với số tiền vay nợ nêu trên mới bảo đảm quyền lợi của bên sử dụng nhà và bên sử dụng tiền vay. Việc tòa phúc thẩm buộc bà Hương trả lại cho vợ chồng bà Hợp toàn bộ nhà đất khu biệt thự Đỉnh Long nhưng lại tiếp tục giao cho bà Hương quản lý cho đến khi bà Hợp trả xong tiền nợ là làm hạn chế quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng bà Hợp…

Hơn 8 năm qua đã có 3 bản án sơ thẩm, 2 bản án phúc thẩm và một quyết định Giám đốc thẩm được ban hành nhưng sự việc vẫn chưa ngã ngũ. Chỉ là một vụ việc dân sự nhưng tranh chấp giữa nguyên đơn Phạm Thị Hương và bị đơn Đinh Bích Hợp đã kéo hàng loạt cơ quan tư pháp vào cuộc. Điều đáng nói, TAND cấp cao tại Hà Nội, VKSND TP Hải Dương đã chỉ ra nhiều vi phạm trong các bản án của TAND TP Hải Dương, TAND tỉnh Hải Dương, khiến dư luận băn khoăn, nghi ngại chất lượng xét xử những phiên tòa đã qua. Để không tái diễn những vi phạm, các đương sự tâm phục, khẩu phục, rất mong TAND tỉnh Hải Dương thu thập, xem xét, thẩm định, đánh giá, nhận định…, ra phán quyết công tâm, khách quan.

 

 

Bình luận

    Chưa có bình luận