Kỳ 1: Hoài niệm tranh dân gian
Nghệ nhân sống bằng nghề ít dần
Thế kỷ 18, 19 được xem là thời kỳ hưng thịnh nhất của tranh dân gian Việt Nam cùng với sự phát triển của nghề in và khắc gỗ. Ở thời kỳ này, việc sản xuất tranh dân gian ngày càng mở rộng ở nhiều địa phương, tập trung thành từng làng hoặc do từng hộ in riêng, đáp ứng nhu cầu của cư dân khắp mọi miền đất nước. Từ đó đã hình thành những trung tâm sản xuất tranh khắc gỗ dân gian nổi tiếng, được gọi theo địa danh hành chính, như: Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống (Hà Nội), Kim Hoàng (Hoài Đức - Hà Nội), Nam Hoành (Nghệ An), làng Sình (Huế)... Với nội dung truyền tải ước mong về cuộc sống bình yên, hạnh phúc, tranh dân gian được sử dụng nhiều trong các dịp Tết hay cúng lễ, mang đậm yếu tố tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân.
Tuy nhiên, trước sự biến đổi của lịch sử và đời sống kinh tế - xã hội, ngày nay, nhiều dòng tranh đã bị thất truyền như: tranh Kim Hoàng, Nam Hoành. Những dòng tranh còn tồn tại như: tranh Đông Hồ, tranh thờ miền núi, tranh kính Nam bộ… cũng không còn hưng thịnh như trước.
Với tranh dân gian Đông Hồ, một dòng tranh nổi tiếng vùng Kinh Bắc, trước năm 1945, cả làng Đông Hồ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh nhà nào cũng làm tranh, nhưng bây giờ tranh không được ưa chuộng nên nhà nhà trong làng chuyển sang làm hàng mã để mưu sinh. Nghệ nhân Nguyễn Hữu Quả, một trong số ít nghệ nhân còn làm tranh dân gian Đông Hồ cho biết: “Tranh Đông Hồ ngày nay khác xưa rất nhiều. Nếu trước đây tranh Đông Hồ là sản phẩm chính dành cho người dân chơi vào dịp Tết thì nay ngoài tranh Đông Hồ còn có nhiều sản phẩm khác như: tranh gỗ, tranh đồng, tranh sơn dầu, tranh lụa… Sự lựa chọn của người dân nhiều hơn cùng với đó là sự thay đổi của xu hướng thẩm mỹ hiện đại, đã làm cho sức tiêu thụ của dòng tranh Đông Hồ giảm đi rất nhiều và số nghệ nhân sống bằng nghề tranh cũng ít dần. Vì lẽ đó, tranh Đông Hồ ngày bị mai một”.
Chỉ số ít nghệ nhân quyết bám nghề
Tranh dân gian Hàng Trống - dòng tranh gắn với nét đẹp văn hóa, tín ngưỡng của vùng đất Hà Thành, với những tác phẩm độc đáo như “cá chép trông trăng”, tranh tứ quý “tùng, cúc, trúc, mai”… giờ cũng chỉ còn lại duy nhất nghệ nhân Lê Đình Nghiên đã vào tuổi xưa nay hiếm. Mỗi lần nhắc đến quá khứ huy hoàng của dòng tranh, ông Nghiên lại nuối tiếc và đau đáu trăn trở giữ nghề. Theo ông Nghiên: “Tranh hàng Trống làm mất công hơn những loại tranh khác là cứ phải sử dụng bút lông vẽ từng màu một, muốn nhanh, muốn công nghiệp hóa cũng không được. Kỹ thuật cầu kỳ đòi hỏi người làm tranh phải chịu khó, khéo tay, vì thế dòng tranh này kén người. Bản thân tôi còn giữ được nghề đến ngày hôm nay là do tôi công tác trong nghề mỹ thuật, sẵn tay nghề và một tình yêu với văn hóa dân tộc. Bây giờ, người dân Việt yêu tranh dân gian rất ít, vì thế tôi làm chủ yếu bán cho khách nước ngoài, hoặc làm theo đơn đặt hàng chứ không khí cả nhà tất bật làm hàng tập tranh như xưa không còn”.
Cùng với các dòng tranh dân gian ngoài Bắc, các dòng tranh dân gian miền Nam như tranh gói vải, tranh vải hiện cũng chỉ còn một nghệ nhân làm, hay như tranh dân gian làng Sình ở Thừa Thiên - Huế có lịch sử hơn 400 năm cũng đang dần mai một và biến dạng. Nhiều tranh và bản khắc độc đáo tranh làng Sình đã không còn nguyên bản, bị thất tán trong dân gian.
Tranh dân gian làng Sình hiện chỉ còn 5 gia đình làm, nhưng 4 gia đình làm cầm chừng theo mùa vụ, chỉ có 1 gia đình làm thông suốt cả năm và dồn tâm huyết vào phục hồi và phục dựng là gia đình nghệ nhân Kỳ Hữu Phước. Điều này cho thấy, sức tiêu thụ tranh làng Sình bị giảm đi rất nhiều. Theo PGS.TS. Phan Thanh Bình, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Nghệ thuật Huế: Tranh làng Sình là dòng tranh mộc bản được sử dụng phổ biến ở cố đô Huế với chức năng duy nhất là phục vụ cúng lễ, cứ cúng xong là đốt. Vì vậy, đến nay chỉ những bản khắc gỗ là hiện vật quý còn được lưu giữ ở nhà ông Kỳ Hữu Phước - một nghệ nhân làm tranh lâu năm tại làng Sình. Ông là người cuối cùng của dòng tranh này biết chế tác và khắc nét tranh đúng với bản sắc tranh dân gian làng Sình cổ.
Với những người yêu giá trị văn hóa truyền thống và những người đã từng sống trong những năm tháng mà tranh dân gian là thứ không thể thiếu trong mỗi ngôi nhà thì sự mai một và bị lãng quên của dòng tranh này là một sự nuối tiếc. Nghệ sĩ nhiếp ảnh Lê Bích, người nhiều năm dành thời gian và tâm huyết đi tìm hiểu và lưu giữ lại những hình ảnh của các dòng tranh dân gian đã phải thốt lên rằng: “Tranh Kim Hoàng bị thất truyền, tranh kính Chợ Lớn không còn nữa, tranh Đông Hồ, Hàng Trống và làng Sình còn duy trì cầm chừng. Đọng lại vẫn là một nỗi buồn vì nó chưa phát triển xứng tầm với những gì vốn có. Bây giờ dòng tranh nào còn sót lại và tồn tại là vô cùng đáng quý và rất cần khôi phục và bảo tồn”.
Sự khắc nghiệt của thời kỳ chiến tranh loạn lạc đến sự thay đổi của đời sống kinh tế theo cơ chế thị trường và hội nhập thế giới của nước ta đã làm cho tập quán chơi tranh và sử dụng tranh không còn phổ biến như trước đây. Một thời cả làng nhộn nhịp sản xuất tranh không còn, nay một số làng tranh dân gian chỉ còn vài ba gia đình cố gắng bám trụ vì niềm say mê với nghề và vì nỗi trăn trở truyền giữ di sản của cha ông. Vì thế, tranh dân gian đang ngày một bị lãng quên, mai một là điều khó tránh khỏi, từ đó đặt ra những thách thức lớn trong việc bảo tồn và phát huy giá trị trong dòng chảy đương đại hiện nay. /.
Hồng Bắc VOV6