BÀI 1: TÍNH LÃI TRÁI LUẬT VÀ NHỮNG BẤT THƯỜNG TRONG MỘT BẢN ÁN
Bài 2: VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TP HẢI DƯƠNG KHÁNG NGHỊ BẢN ÁN SƠ THẨM
Cho rằng bản án sơ thẩm có nhiều vi phạm nên VKSND TP Hải Dương đã kháng nghị phúc thẩm, đề nghị hủy bản án sơ thẩm số 15/2022/DS-ST, ngày 17/8/2022 của TAND TP Hải Dương để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.
Vi phạm trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ
Theo bản án sơ thẩm số 15/2022/DS-ST ngày 17/8/2022 của TAND TP Hải Dương, Hội đồng xét xử quyết định: Xác định giấy chốt nợ ngày 25/01/2013 không phải là nợ gốc, nợ gốc được tính tương đương giá trị nhà đất là 25,3 tỷ đồng, bà Hợp còn nợ chưa thanh toán cho bà Hương tính đến 26/3/2013 là trên 20,19 tỷ đồng; bà Hương chưa thanh toán tiền mua căn hộ Ciputra Hà Nội của bà Hợp là 3 tỷ đồng; buộc bà Hợp trả cho bà Hương số tiền trên 16,29 tỷ đồng, sau khi đã đối trừ các khoản…
Đáng lưu ý, một lần nữa bản án sơ thẩm số 15/2022/DS-ST vẫn không được đồng tình. Theo đó, VKSND TP Hải Dương đã ra quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ-KNPT-VKS-DS, ngày 30/8/2022, đưa ý kiến cho thấy bản án sơ thẩm số 15/2022/DS-ST có nhiều vi phạm.
Theo VKSND TP Hải Dương, trong quá trình thu thập, đánh giá chứng cứ, bản án xác định số tiền nợ của bà Hợp với bà Hương từ năm 2008 đến năm 2013 bằng việc xác định giá trị nhà, đất ở khu biệt thự Đỉnh Long và 3.000.000.000 đồng giá trị căn chung cư Ciputra (Hà Nội) là không có cơ sở, vì giá trị nhà đất không phải là căn cứ xác định số nợ của các bên, số nợ của các bên chỉ là tiền để mua nhà đất. Việc xác định số nợ gốc phải dựa trên các giấy biên nhận vay nợ, các giấy thanh toán tiền vay và các giấy tờ khác liên quan đến việc vay nợ do các bên cung cấp, trên cơ sở đó xác định tiền lãi theo quy định của pháp luật.
Cũng theo VKSND TP Hải Dương, bản án nhận định “các khoản tiền bà Hương cho bà Hợp vay đều được tính lãi ngày với mức lãi suất từ 2,5% - 3%/tháng rồi cộng lãi vào gốc để tính lãi tiếp theo nên không thể căn cứ giấy biên nhận ngày 25/1/2013 để xác định số tiền nợ bà Hợp chưa thanh toán cho bà Hương”. Như vậy, HĐXX cũng đã xác định số tiền chốt nợ 33.127.000.000đ không phải là tiền vay gốc, mà là số tiền được hình thành từ việc cộng lãi vào gốc rồi tính lãi chồng lãi. HĐXX căn cứ thỏa thuận này để xác định nợ gốc tương đương giá trị nhà đất do các bên thỏa thuận dùng để đối trừ nợ, như vậy là thừa nhận hiệu lực của giao dịch dân sự cho vay lãi cao vượt quá quy định và tính lãi chồng lãi trái pháp luật.
Tiếp tục chỉ ra những vi phạm của bản án sơ thẩm, VKSND TP Hải Dương cho rằng, các bên thống nhất đối trừ nợ bằng giá trị nhà đất tại thời điểm ngày 26/3/2013 nhưng HĐXX lại xác định giá trị tài sản tại ngày 4/11/2021 để tính số tiền nợ gốc là thu thập, đánh giá chứng cứ là không đủ, không đảm bảo quyền lợi của đương sự.
Đáng lưu ý, VKSND TP Hải Dương cho rằng, bản án nhận định các giấy biên nhận thu thập được không phản ánh đầy đủ số lần, số tiền bà Hương cho bà Hợp vay nên không thể căn cứ các tài liệu này để xác định nợ gốc nhưng lại căn cứ vào các giấy tờ ghi chép thu thập được trong hồ sơ vụ án để tính số tiền bà Hợp đã trả cho bà Hương là đánh giá chứng cứ không khách quan, toàn diện.
Đối với 04 giấy biên nhận khoản vay (ngày 22/7/2008 là 1.000.000.000 đồng, ngày 14/9/2008 là 300.000.000 đồng, ngày 25/11/2008 là 300.000.000 đồng và ngày 31/10/2012 là 200.000.000 đồng), bản án nhận định bà Hợp trình bày đã thanh toán xong các khoản nợ theo giấy biên nhận trên nhưng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ để chứng minh, nên không có cơ sở chấp nhận.
Tuy nhiên, tại biên bản lấy lời khai của bà Hương ngày 29/10/2014 tại TAND TP Hải Dương (bút lục 605-606) thể hiện: “Toàn bộ số tiền tại các giấy biên nhận nợ của các ngày 22/7/2008 bà Hợp vay 1 tỷ đồng, ngày 14/9/2008 vay 300 triệu đồng, ngày 25/11/2008 vay 300 triệu đồng và giấy biên nhận ngày 31/10/2012 do anh Nguyễn Văn Thành nhận tiền vay hộ bà hơn 200 triệu đồng (anh Thành ký nhận) không nằm trong tổng số 33.127.000.000 đồng mà tôi và bà Hợp đã chốt nợ. Tất cả các khoản tiền trong các giấy biên nhận nợ trên bà Hợp đã trả cho tôi”.
Như vậy, tổng số tiền 1.800.000.000 đồng bà Hợp đã trả nợ bà Hương theo 04 giấy biên nhận nêu trên đã được các bên đương sự công nhận, là tình tiết, sự kiện không phải chứng minh, nhưng HĐXX lại xác định bà Hợp chưa thanh toán các khoản vay này với căn cứ do bà Hợp không cung cấp được chứng cứ, là vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ theo quy định tại khoản 2, Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vi phạm áp dụng luật
Quyết định kháng nghị phúc thẩm, VKSND TP Hải Dương cho rằng quá trình giải quyết lại vụ án, ngày 1/10/2019, nguyên đơn bà Phạm Thị Hương có đơn khởi kiện bổ sung đề nghị tòa án buộc bà Đinh Bích Hợp phải trả lại cho bà quyền sử dụng 89,5m2 đất ở thuộc lô 15.3-17 (đường Phùng Chí Kiên, khu An Phú 3, khu đô thị phía Tây TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương). Ngày 22/10/2019, bà Hương thay đổi yêu cầu khởi kiện, đề nghị tòa án công nhận bà Hương có quyền sử dụng hợp pháp đối với lô đất số 15.3-17 nêu trên. Bản án giải quyết xác định lô đất này là tài sản chung của bà Hương, bà Hợp, ông Thái và tiến hành chia tài sản chung là vi phạm nghiêm trọng tố tụng và áp dụng không đúng pháp luật. Ngoài ra, VKSND TP Hải Dương cũng chỉ rõ những vi phạm trong việc tính lãi suất.
Bên cạnh đó, VKSND TP Hải Dương cũng cho rằng bản án vi phạm trong việc không giải quyết hết yêu cầu và vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự. Cụ thể, theo VKSND TP Hải Dương, bà Hương khởi kiện yêu cầu tòa án công nhận bà Hương có quyền sử dụng hợp pháp đối với lô đất 15.3-17 nhưng bản án không xem xét để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu này của đương sự là không giải quyết hết yêu cầu của đương sự; các đương sự không yêu cầu phân chia tài sản chung, nhưng HĐXX lại xác định lô đất này là tải sản chung, giao cho bà Hương, bà Hợp, ông Thái, sau đó tiến hành phân chia tài sản chung, giao cho bà Hương quản lý, làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là giải quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện của đương sự.
Quá trình giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm, bà Hợp đề nghị tòa án tuyên giao dịch dân sự về việc mua bán lô đất 15.3-17 giữa bà Hợp và bà Hương là vô hiệu nhưng HĐXX không xem xét để quyết định chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của bà Hợp là không giải quyết hết yêu cầu khởi kiện của đương sự.
Với những nội dung kể trên, VKSND TP Hải Dương cho rằng, bản án sơ thẩm số 15/2022/DS-ST đã có vi phạm trong việc thu thập và đánh giá chứng cứ, áp dụng pháp luật, vi phạm nguyên tắc tự định đoạt của đương sự, không giải quyết hết yêu cầu và giải quyết vượt quá yêu cầu của đương sự, đã vi phạm các Điều 05, 97 và 108 Bộ Luật tố tụng dân sự, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, cần phải kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Từ đó, VKSND TP Hải Dương kháng nghị đối với bản án số 15/2022/DS-ST của TAND TP Hải Dương theo thủ tục phúc thẩm; đề nghị TAND tỉnh Hải Dương đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm, áp dụng khoản 3 Điều 308, Điều 310 Bộ Luật tố tụng dân sự 2015, hủy bản án sơ thẩm số 15/2022/DS-ST để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm.